HẠNH PHÚC LÀ CON ĐƯỜNG

Quan điểm về hạnh phúc của thế gian là khi mình có tiền tài, danh vọng, quyền lực, sắc dục là có hạnh phúc. Phần lớn chúng ta đều nghĩ như vậy, và chúng ta đã đi tìm hạnh phúc ở cái hướng đó. Có tiền thì có thể mua sắm được. Có nhiều người nói mua được cái ti vi lớn đó, cái xe hơi đó, thì là hạnh phúc. Bây giờ mình chưa có cái ti vi đó, chưa có cái xe hơi đó, và mình nghĩ rằng: mua được cái xe hơi đó, mua được cái ti vi đó là mình có hạnh phúc. Mình tiên đoán hạnh phúc sẽ có được khi mình mua được chiếc xe đó, mua được cái ti vi đó. Đứng về phương diện danh vọng, mình nghĩ là nếu mình được bầu làm Tổng Thống, bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, hay mình giật được cái bằng cấp tiến sĩ..., thì lúc đó mình mới có hạnh phúc, còn bây giờ mình chưa có hạnh phúc. Hạnh phúc là khi nào mình giật được mảnh bằng đó, mình được bầu vào chức vụ đó, thì mình có hạnh phúc. Chúng ta đang đứng ở chỗ không có hạnh phúc, và tiên đoán rằng sẽ có hạnh phúc khi mà chúng ta được cái đó. Trước hết là chuyện mua sắm, thứ hai là chuyện danh vọng. Nếu chúng ta quán chiếu và nghiên cứu để kiểm chứng lại sự thật đó, thì chúng ta thấy rằng : một tuần hay hai tuần sau khi mua xe hơi, thì cái hạnh phúc đó không còn nữa. Một năm hay sáu tháng sau khi có chức vụ đó, hay là có bằng cấp đó, thì ta không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Những người nào đã đậu bằng tiến sĩ, nên nghĩ lại là trước khi mình có cái bằng tiến sĩ đó, mình ước ao nó như thế nào : 'Nếu mình không có bằng tiến sĩ chắc là mình chết quá, mình sẽ không có hạnh phúc.' Nhưng khi có cái bằng đó rồi, thì tự hỏi mình hạnh phúc được mấy ngày, được mấy tuần hay mấy tháng ? Sự thật là mình chỉ sử dụng cái điều kiện hạnh phúc đó trong một thời gian rất là ngắn, sau đó sự kiện đó nó lờn và không đủ sức làm cho mình có hạnh phúc nữa. Có hạnh phúc thiệt đó, nhưng trong một thời gian ngắn thôi. Cấu trúc của cơ thể và của tâm lý có công năng biến những cái đó ra bình thường, không còn có tính cách kích động nữa. Cho nên cái điều kiện ban đầu mình cho là hạnh phúc, khi mình đạt được rồi, thì chỉ trong một thời gian ngắn nó sẽ lờn đi, nó không còn có cái hấp dẫn lực nữa và không còn cho mình hạnh phúc nữa. Mỗi khi mình có điều kiện hạnh phúc đó rồi, ví dụ như là một cái danh vọng, một cái bằng cấp, một cái địa vị, hay là một số tiền lớn, mình vẫn tiếp tục đau khổ như thường. Những cái đó ban đầu cho mình những cái 'exiting', nhưng sau đó thân và tâm mình chấp nhận và biến nó thành ra bình thường, và nó hết trở thành một điều kiện của hạnh phúc. Đó là sự thật. Nếu chúng ta không biết được cái gì làm cho chúng ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta biết được những cái gì làm cho ta hạnh phúc trong tương lai ? Phải hỏi câu hỏi đó. Thành ra, mỗi chúng ta sẽ đặt câu hỏi trong giây phút hiện tại này, cái gì sẽ làm cho ta hạnh phúc. Đó là câu hỏi rất là thiết yếu. Mà cái gì đó có thể có thật hay không ? Có được liền hay không ? Nếu chúng ta không nhận diện được điều kiện có thể làm cho ta có hạnh phúc trong giây phút hiện tại, thì làm sao ta có thể tiên đoán được cái mà làm cho ta có hạnh phúc trong tương lai. Hạnh phúc không phải là cái gì trong tương lai, hạnh phúc không phải là con đường, hạnh phúc không phải là cái gì có ở cuối đường nữa, mà hạnh phúc nằm ngay trên mỗi bước chân trên con đường. Nếu biết được cái gì có thể làm cho mình hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, thì mình có hạnh phúc liền. Không cần ngồi đó mà đau khổ, mà tiên đoán thời tiết là sau này ta sẽ có hạnh phúc nếu ta có cái này, cái kia.
Hạnh phúc trước hết là một cảm thọ, gọi là lạc thọ, pleasant feeling. Nhưng lạc thọ chưa hẳn là hạnh phúc. Khi nhìn các em bé đang nô đùa một cách rất vô tư, không luyến tiếc quá khứ, không lo lắng tương lai, chúng ta thấy các em như là đang ở trong thiên đường. Đó là hạnh phúc. Nhưng không biết các em có biết là các em đang có hạnh phúc hay không ? Đang nô đùa, đang rong chơi, không lo lắng, chưa hẳn đó là hạnh phúc. Mình không biết là mình đang có hạnh phúc, thì cái hạnh phúc đó chưa hẳn là hạnh phúc chân thật. Có nhiều người đang sống trong những điều kiện rất thuận lợi, không có vấn đề, không có lo lắng, không có sầu khổ, đáng lý ra là những người đó có hạnh phúc. Cho nên sống trong những điều kiện thuận lợi coi như chưa phải là hạnh phúc.Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc là ý thức mình đang có về lạc thọ. Lạc thọ chưa phải là hạnh phúc, mà ý thức rằng mình đang có lạc thọ thì mới thật là hạnh phúc. Những em bé đang nô đùa trong thiên đường, các em không biết là các em đang có hạnh phúc. Chỉ khi nào các em lớn lên và mất cái thiên đường đó rồi, các em mới biết rằng mình đã từng có hạnh phúc.
Yếu tố chánh niệm là yếu tố căn bản. Nếu mình hạnh phúc mà không biết rằng mình đang hạnh phúc thì cái đó chưa phải là hạnh phúc. Mình có thể tạm đưa ra một định nghĩa về hạnh phúc, tức là ý thức được rằng mình đang có một lạc thọ. Nhưng định nghĩa đó chưa có tuyệt đối, tại vì có thể mình đang không có lạc thọ, nhưng mình vẫn có hạnh phúc như thường. Ví dụ mình đang khuân vác một cái gì đó nặng, nhưng nghĩ rằng khuân vác như vậy đem lại hạnh phúc cho tăng thân, cho người thương của mình, thì trong khi đang khuân vác nặng nề như vậy mình cũng có thể có hạnh phúc. Cảm thọ lúc đó không hẳn là lạc thọ, nhưng vì ý thức được mình đang làm một việc có ý nghĩa, do tình thương xúc tác, thì lúc đó trong tâm phát sinh một lạc thọ, lạc thọ đó có thể đi đôi với khổ thọ . Định nghĩa 'hạnh phúc là một lạc thọ' là một định nghĩa quá hẹp hòi, đơn giản. Tâm mình đóng một vai trò rất quan trọng. Tâm mình không phải chỉ là lạc thọ hay chỉ là cảm thọ thôi.

Khổ đau và Hạnh phúc
Khổ đóng một vai trò rất là quan trọng để tạo ra lạc. Nếu không có khổ thì không có lạc. Ví dụ khi chúng ta không có đói, không biết đói là gì, thì chúng ta không được cái hạnh phúc của sự ăn ngon. Khi chúng ta không biết lạnh là gì, thì chúng ta không biết được hạnh phúc của sự ấm áp. Hạnh phúc là cái gì chỉ có thể nhận diện được trên bối cảnh của khổ đau mà thôi. Bối cảnh, tiếng Anh là background. Cũng như khi chúng ta đang ở ngoài trời lạnh buốt mà chúng ta mở cửa đi vào trong nhà, chúng ta cảm thấy ấm quá, dễ chịu quá, hạnh phúc quá, thì cái hạnh phúc khi bước vào nhà là do cái đau khổ bị chịu lạnh ở ngoài trời. Nếu chúng ta ở trong nhà độ chừng mười phút hoặc mười lăm phút, thì chúng ta quên đi cảm giác đó, chúng ta không thấy hạnh phúc nữa. Chúng ta phải ra ngoài để thấy lạnh rồi đi vô mới thấy hạnh phúc lại.Chúng ta phải nhờ có khổ đau thì chúng ta mới nhận diện được hạnh phúc. Đó là cái contrast, cái tương đãi, cũng như là ánh sáng và bóng tối. Hạnh phúc tùy thuộc ở khổ đau. Muốn loại trừ khổ đau ra để chỉ có hạnh phúc thôi là một ý niệm rất là ngây thơ, khờ dại. Sự thật nếu ta không biết khổ đau là gì thì ta cũng không biết hạnh phúc là gì. Thiên Đường cũng vậy. Chúng ta không nên gởi con cháu của chúng ta tới những nơi không có khổ đau, nếu con cháu chúng ta tới những nơi không có khổ đau thì chúng nó sẽ không biết gì là hạnh phúc. Không có khổ đau thì làm sao mình tập hiểu và tập thương được ! Nếu không có chất liệu hiểu và thương thì đố mà anh có hạnh phúc được. Chỉ khi nào trong trái tim anh có chất liệu hiểu và thương thì anh mới có hạnh phúc. Nếu không có khổ đau, thì làm sao anh biết hiểu và làm sao anh biết thương. Hiểu cái gì? Thương cái gì? Do đó định nghĩa về Thiên Đường hay Cực Lạc là chỗ không có khổ đau là một định nghĩa rất ngây thơ. Hạnh phúc là một cái gì chỉ nhận diện được khi có đau khổ. Hạnh phúc chỉ nhận diện được trên cái bối cảnh khổ đau mà thôi. Cũng như cái ấm được nhận diện trên bối cảnh của cái lạnh; cái no được nhận diện trên bối cảnh của cái đói. Chạy trốn khổ đau là một thái độ không phù hợp với tinh thần của giáo lý đạo Bụt. Chúng ta phải đối diện khổ đau, phải nhìn vào khổ đau, hành động đó giúp chúng ta nhận diện được thế nào là hạnh phúc.Hạnh phúc nằm ở trong tâm mà không phải ở hoàn cảnh. Thường thường mình hay nghĩ tới hạnh phúc trong cái văn mạch của sự mua sắm. Có cái xe hơi đó, có cái nhà đó, có cái bằng cấp đó, thì có hạnh phúc; có được tiền để đi du lịch là có hạnh phúc. Tất cả những cái mình nghĩ tới hạnh phúc như là một điều kiện ngoại tài, điều kiện đi tìm ở ngoài, trong khi hạnh phúc tùy thuộc vào tâm của mình rất nhiều. Chúng ta chỉ cần trở về trong giây phút hiện tại để nhận diện những điều kiện hạnh phúc thì ta có hạnh phúc liền. Giáo lý Hiện Pháp Lạc Trú nói rất rõ ràng là hạnh phúc có thể có được trong giây phút hiện tại, đó là một sự xác quyết của đức Như Lai. Đức Như Lai nói rằng mình có thể sống hạnh phúc được trong giây phút hiện tại. Chúng ta cần những gì, những điều kiện nào để có thể hạnh phúc ngay trong giây phúc hiện tại? Trở về với giây phút hiện tại, tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc đã có và đang có.
Hỷ là niềm vui và Lạc là hạnh phúc. Đức Thế Tôn muốn chúng ta có Hỷ và có Lạc trong đời sống hàng ngày. Nếu không có Hỷ và có Lạc thì sự thực tập của ta không được nuôi dưỡng và ta không có đi xa được. Đức Thế Tôn nói là có những phương pháp thực tập để giúp ta có Hỷ và có Lạc trong đời sống hàng ngày.
Trước hết là ly. Ly tức là buông bỏ. Mình phải biết buông bỏ thì mới có Hỷ và Lạc được. Buông bỏ cái gì đây? Có những cái trong tâm cần phải buông bỏ: những giận hờn, những tiếc nuối, những cố chấp, những thành kiến.
Ly sanh hỷ lạc, tức là sự buông bỏ đưa tới Hỷ và Lạc. Quý vị nghĩ rằng nếu mình không được người đó thương thì mình không có hạnh phúc, người đó phải thương mình thì mình mới có hạnh phúc được. Điều kiện đó chưa có, thành ra mình phải đợi người đó thương mình, rồi mình mới có hạnh phúc được, thì cái đó là một cái kẹt, cái đó cần phải buông bỏ. Tại sao phải có người đó thương mình mới có hạnh phúc? Tại sao phải cột hạnh phúc của mình vào một điều kiện mà mình chưa có? Tại sao hạnh phúc đang tới từ muôn phương thì mình đóng cửa lại hết, mà mình chỉ ngồi đó trông cầu một cái mình chưa có? Đó là phóng tâm về tương lai, đòi hỏi những cái khác, trong khi điều kiện hạnh phúc mình có sẵn mà không biết thừa hưởng. Đó là những cái phải buông bỏ. Có những cái ta nghĩ rằng rất cần thiết cho hạnh phúc của ta, và ta cứ tiếp tục nắm giữ. Có thể chính vì những cái ta đang nắm giữ mà ta không có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có thể có được khi mình biết buông bỏ. Buông bỏ những tiếc nuối của mình, nhất là buông bỏ những ý niệm của mình, những ý niệm về mình và về người kia. Những ý niệm đó làm cho mình khổ mà cũng làm cho người kia khổ. Mình có sự phán xét về mình, mình có sự phán xét về người kia; mình cho mình là cao, hoặc mình cho mình là thấp, mình cho mình là đẹp, hoặc mình cho mình là xấu, mình cho người kia là đẹp,
người kia là xấu, người kia là tốt, người kia là khó chịu, người kia là dễ chịu, tất cả những ý niệm đó đều có thể làm cho mình khổ đau. Thành ra buông bỏ những ý niệm đó rất là quan trọng, không có tốn một đồng nào hết. Buông bỏ là một phương pháp rất là mầu nhiệm, nó đem tới hạnh phúc liền lập tức.
Niệm Sinh Hỷ Lạc
Niệm sinh hỷ lạc là một phương pháp khác. Niệm tức là ý thức. Ví dụ khi mình uống một ly trà hay một ly sữa đậu nành, nếu mình biết rằng mình đang có ly trà hay một ly sữa đậu nành để uống trong giờ phút này thì mình có hạnh phúc lớn, đó là niệm. Niệm là có mặt, có mặt đích thực. Niệm tức là ý thức được cái gì đang xảy ra. Trong khi có niệm thì mình nhận diện được những điều kiện của hạnh phúc, cái đó gọi là niệm sinh hỷ lạc. Ý thức rằng mình đang có tuổi trẻ, mình đang có cơ hội để tu học, mình đang ở trong tăng thân, mình có những điều kiện để tu tập, thì cái ý thức đó là niệm. Khi mà không biết, không có ý thức tức là quên, là thất niệm. Niệm đưa lại hạnh phúc liền lập tức. Ý thức rằng người thương của mình đang còn đó, ngồi trước mặt mình, thì tự nhiên mình có hạnh phúc. Ý thức rằng mình còn hai mắt sáng, mở mắt ra thì thấy trời xanh mây trắng, đó là niệm. Ý thức rằng mỗi ngày có cơ hội thực tập thiền đi là hạnh phúc. Có vô số những điều kiện hạnh phúc đang có mặt mà mình chỉ cần thực tập chánh niệm là trở về được giây phút hiện tại và tiếp xúc với những điều kiện hạnh phúc. Niệm là một nguồn suối của hạnh phúc, niệm sinh hỷ lạc. Từ niệm mà hỷ và lạc phát sanh. Mình rất là giàu có. Mình thật sự là những đứa con rất giàu có nhưng mình hành xử như những đứa cùng tử than nghèo. 'Trời ơi! Tại sao tôi không có hạnh phúc gì hết, tôi chỉ có khổ đau mà thôi.
Định Sinh Hỷ Lạc
Định có nghĩa là chuyên chú, là tập trung tâm ý. Niệm đã đem lại hỷ lạc rồi, còn định làm cho niềm vui và hạnh phúc sâu sắc hơn. Trong niệm có định. Càng thực tập niệm thì định càng lớn. Định này làm cho mình tập trung được, làm cho mình chuyên chú được vào đối tượng, và đối tượng đó có thể đem lại rất nhiều hạnh phúc. Ví dụ như là hơi thở của mình. Trong khi mình ngồi thở, trong khi mình đi thiền, trong khi mình ngồi thiền, trong khi mình nấu cơm, giặt áo, niệm về hơi thở đưa lại hạnh phúc, và định về hơi thở làm cho hạnh phúc sâu sắc hơn. Định càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Khi chúng ta có năng lượng của niệm và định hùng hậu thì chúng ta sẽ có tuệ. Tuệ tức là cái thấy, cái hiểu. Nhờ cái thấy này, cái hiểu này mà đem lại hạnh phúc rất là nhiều. Tuệ có khả năng giải tỏa những hiểu lầm, những khổ đau, những kiến chấp. Khi có niệm, có định, có tuệ thì mình thấy được sự thật, cho nên mình giải tỏa được những thành kiến, những u mê, và mình có hạnh phúc. Ví dụ giữa mình với người thương của mình có sự hiểu lầm. Người thương hiểu lầm mình, và mình hiểu lầm người thương vì những tri giác sai lầm. Nhờ niệm và tuệ mình thấy được sự thật, nhờ vậy mình lấy đi sự hiểu lầm đó, thì tự nhiên giữa mình và người mình thương có hạnh phúc thôi, cho nên tuệ sinh hỷ lạc. Trí tuệ là nguồn suối của hỷ và lạc, cho nên người nào cũng phải thực tập.
Giới Sinh Hỷ Lạc
Giới tức là thực tập chánh niệm, mindfulness training. Giới bảo hộ cho mình. Giới là do niệm sinh ra. Nhờ có chánh niệm cho nên ta biết những đau khổ được sinh ra vì ta không chịu giữ giới, cho nên giới tương đương với niệm. Khi giữ giới, mình bảo hộ cho mình, và bảo hộ cho người thương của mình, bảo hộ cho hoàn cảnh gia đình, vì vậy cho nên hạnh phúc có được, niềm vui có được. Giới cũng sanh ra hỷ và lạc.
Nhu Yếu Hiểu Và Thương
Trong con người của mình có hai nhu yếu, và khi hai nhu yếu đó được thỏa mãn thì mình có rất nhiều hỷ và nhiều lạc. Cái nhu yếu thứ nhất là hiểu. Hiểu tức là tuệ. Hạt giống tuệ ở trong mình đòi hỏi mình phải làm thỏa mãn nó, mình khao khát hiểu biết (curiosity), bởi vì sự sống là một mầu nhiệm. Chính cái thân của mình cũng là một mầu nhiệm. Tâm của chúng ta cũng là những mầu nhiệm rất lớn. Đạo Bụt là một khoa học nghiên cứu về tâm, gọi là tâm học. Chúng ta tu, chúng ta cũng có cái nhu yếu muốn hiểu, muốn có cái hiểu biết sâu sắc về thực tại. Chúng ta muốn hiểu biết về năm uẩn của chúng ta, và sự hiểu biết về năm uẩn đó sẽ đưa lại sự thỏa mãn, có thể làm tiêu tán những u mê sai lầm của chúng ta về năm uẩn, những cái u mê đã từng gây ra những khổ đau cho mình và cho người khác. Vì vậy cho nên cái hiểu này không phải là cái hiểu suông, cái hiểu này có tính cách chuyển hóa, giải phóng, giải thoát, cái hiểu đó gọi là prajna (bát nhã), là trí tuệ, đó là nhu yếu rất lớn.
Chúng ta cũng có một cái nhu yếu lớn khác nữa, đó là thương yêu lớn. Tình thương đem lại hạnh phúc, càng thương nhiều càng hạnh phúc nhiều.

TS.Nhất Hạnh

VƯỢT THOÁT TRẦM LUÂN TS. Nhất Hạnh

Tây phương có chữ “Religion”, có nghĩa là tôn giáo và ở Đông phương thì có chữ “Đạo”. Đạo nghĩa là con đường, con đường đưa tới sự giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Cách đây 25 năm, có một người Anh tới Làng. Ông ta mới hỏi Tôi: “Bạch Thầy, chừng nào thì mình biết là mình có thể trở thành một vị giáo thọ?” (When do we know we can be a Dharma teacher?). Tôi nhìn ông ta và nói: “Khi nào anh có hạnh phúc” (When you are happy). Nếu mình không có hạnh phúc thì mình không thể làm giáo thọ được, vì mình không có gì để hiến tặng cho người khác hết. Khi nào mình thực tập và giải tỏa được những khổ đau, khó khăn của chính mình, mình có thể mỉm cười, hạnh phúc được thì lúc đó mình biết là mình có thể giúp đời, có thể đưa đường chỉ lối cho người khác.
Con đường của đạo Bụt là con đường giúp chúng ta dừng lại, chấm dứt được sự chìm đắm và trôi lăn trong biển khổ. Những cái gì mình học, đem ra thực tập phải có tác dụng giúp mình dừng lại sự chìm đắm và trôi lăn đó. Chìm đắm tức là Trầm, mà trôi lăn là Luân. Trầm là chìm xuống, chìm sâu trong biển khổ. Khổ ví như là một cái biển, cho nên chúng ta hay có danh từ biển khổ. Nếu mình không khéo léo thì mình chìm xuống đáy biển và không trồi lên được. Cho nên chúng ta học và thực tập để làm sao đừng bị chìm xuống, mà nếu lỡ có bị chìm thì phải biết cách nổi lên trở lại. Và người dạy cho mình, người ấy phải nổi, người ấy mà cũng chìm thì làm sao giúp cho mình nổi lên được?
Có những phương pháp mà Bụt trao truyền, nếu nắm được thì mình nổi lên dễ dàng. Trong bài tựa của Thiền sư Tăng Hội viết cho Kinh An Ban Thủ Ý, ngay câu đầu Tổ đã nói: “An Ban là đại thừa của các vị Bụt, dùng để cứu độ chúng sinh đang lênh đênh chìm nổi”. An Ban tức là phương pháp thở, là một trong những phương pháp rất hay để giúp cho khi bị chìm xuống thì mình có thể nổi lên trở lại được. Và nếu học, nắm được phương pháp thở thì khi bị chìm xuống, mình có thể nổi lên trở lại. Hoặc là khi mình đang nổi mà không muốn bị chìm thì phải nắm lấy An Ban để thực tập thì sẽ không chìm. Cho nên kinh An Ban Thủ Ý là một trong những kinh rất quý, là phương pháp thở trong chánh niệm giúp mình nắm vững tay chèo để đừng có chìm xuống. Nhiều lúc mình chìm xuống quá sâu và mình có cảm tưởng rằng không bao giờ có thể nổi lên lại được. Lúc đó, nếu mình có “An Ban Thủ Ý” ở trong lòng, lôi ra thực tập thì sẽ nổi lên lại được. Cho nên tới chùa thì phải học cho được những bí quyết, những pháp môn, nắm cho vững để gặp những lúc chìm xuống thì tự biết cách để mà đạp một cái là nổi lên trở lại.
Chữ “luân” có nghĩa lăn, là quay tròn, lăn mà không ngừng lại được, gọi là trôi lăn. Trầm là chìm, luân là trôi lăn. Nếu cố ‎ ý lăn theo để cứu độ người thì lại khác, nhưng đây là mình bị cuốn theo, bị trôi lăn trong cuộc đời. Một mặt thì là chìm, chìm ngỉm, một mặt thì là trôi, trôi lăn long lóc, đó là ý nghĩa hai chữ “Trầm luân”.
Trầm luân đó còn nói về cái tâm. Khổ là do cái tâm của mình cứ chìm đắm và trôi lăn. Khi chìm, nếu biết phương pháp thở thì mình sẽ nổi lên được lại được, khi lăn mà biết phương pháp thì sẽ dừng lại được sự trôi lăn. Trong một ngày mình có thể chìm nhiều lần, có thể lăn nhiều lần, nếu nhìn cho kỹ thì sẽ thấy được nguyên nhân từ đâu mà mình bị chìm. Chìm là tại vì có một sức mạnh nào đó nhấn mình xuống, đó chính là tập khí, đôi khi chỉ nghe một điều gì, hay thấy một điều gì thôi tự nhiên mình không làm chủ được nữa, lại không có phương pháp để tự vệ nên mình chìm nghỉm luôn. Bởi vì cái mà mình nghe hay thấy ấy, đã đánh động vào thói quen, tập khí, khổ đau trong mình. Do mình không có pháp thuật, không có pháp lực, nên dễ dàng bị chúng kéo đi dù không muốn chút nào. Nếu có một phương pháp thực tập thì khi bị những âm thanh, hình ảnh kéo đi mình liền rút pháp môn ra áp dụng thì sóng gió không thể nhấn chìm được. Người Phật tử tới chùa phải thực tập và phải nắm cho được điều ấy.
Đó là nói về chuyện chìm, còn về chuyện lăn. Không phải là tự nhiên mình lăn phải có một động lực nào đó kéo mình lăn. Và cũng như trong trường hợp chìm, nếu mình lăn là do mình thấy một điều gì hay nghe một điều gì và cái thấy cái nghe đó nó đánh động vào năng lượng tập khí ở trong mình tự nhiên mình lăn không ngừng lại được, cứ lăn long lóc trong ba cõi. Khi ấy, nếu tới chùa học được một vài pháp môn, một vài bí quyết thì trong những lúc trôi lăn như vậy mình lôi bí quyết đó ra sử dụng thì mình chấm dứt được sự trôi lăn. Cho nên khi tới chùa gặp các thầy, các sư cô phải hỏi cho được, phải học cho được những phương pháp đó. Và nếu thầy hay sư cô là những người đã từng chìm đắm, đã từng lăn lóc và đã tìm ra được phương pháp để dừng lại, để nổi lên thì thầy và sư cô đó đúng là một vị pháp sư có thể chỉ cho mình những phương pháp để đừng chìm đắm và đừng lăn lóc.
Khi nhìn lại sự chìm đắm và trôi lăn của mình và tìm ra cách vượt thoát thì mình cũng có thể giúp được cho những người khác. Vì vậy cho nên mình tới trung tâm tu học thì phải tới với một quyết tâm. Phải tới với một quyết tâm nắm bằng được một pháp môn nào đó. Đừng có về tay không. Đó là tư lương, vốn liếng, là phương tiện để giữ cho mình đừng có chìm và đừng có trôi. Tại cái chuyện chìm và cái chuyện trôi đó xảy ra hàng ngày, nó xảy ra nhiều lần, có khi nó xảy ra luôn hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong một ngày và làm cho người đó rất đau khổ rồi làm khổ những người khác.
Trong đạo Bụt có hai pháp môn: một pháp môn là Chỉ tức là dừng lại, đừng để cho nó chìm xuống thêm, đừng để cho nó lăn thêm, dừng lại để đứng dậy. Và một pháp môn là Quán, tức là nhìn sâu. Chỉ và Quán, hai cái nương vào nhau. Chỉ nó làm cho quán thành công. Và quán giúp cho chỉ xảy ra mau hơn. Vì vậy cho nên chỉ phải có quán
Khi đi thiền hành, tức là mình đi từng bước một trong chánh niệm, khi ấy, mình có thể vừa thực tập chỉ và vừa thực tập quán được. Ở trong một bước chân có thể có hai cái: chỉ và quán. Nếu mình không biết tu thì mình đi như bị ma đuổi, sống trong trôi lăn và chìm đắm. Tuy cũng đi như người ta nhưng mình bị những lo lắng buồn phiền lôi đi, bị khổ đau nhấn chìm, còn những người kia họ đang đi thiền hành, họ có ý thức với bước chân và hơi thở của họ nên họ làm chủ được tâm mình và không bị lặn ngụp trong trầm luân. Cho nên đi thiền hành là một phương pháp để giữ cho mình đừng có bị chìm đắm, đừng có bị trôi lăn.
Vừa qua ở bên Đức, tôi có chỉ cho các thầy, các sư cô và Phật tử bên đó một bài kệ mới để đi thiền hành, bài kệ rất dễ:
Con đi cho Bụt

Đi như đi chơi
Đi cho hạnh phúc
Đi cho thảnh thơi.
Bụt không bao giờ đi hấp tấp, vội vàng, không bao giờ đi trong lo lắng, sầu khổ, mỗi bước chân của Ngài luôn có an lạc. Còn mình đi thì muốn tới cho mau để làm cái gì đó, vì vậy khi đi, mình bị trôi lăn. Cho nên, đã nhận Bụt là Thầy tức là muốn tiếp nối sự nghiệp của Ngài, thì mình phải bước được những bước chân như ngày xưa Ngài đã bước, tức là mỗi bước chân phải tỏa chiếu bình an.
Mỗi bước chân là hạnh phúc

Mỗi bước chân là trị liệu
Mỗi bước chân là an lạc
Mỗi bước chân là thảnh thơi.
Đi như đi chơi, tức là như đi tản bộ vậy thôi. Đi vì công việc thật nhưng công việc không thể kéo mình trôi lăn được, người tu khác với người không tu ở chỗ đó. Người tu cũng đi nhưng mà người tu phải đi cho thảnh thơi, an lạc. Bước chân vào Thiền viện rồi thì phải đi như vậy. Dù là người xuất gia, hay người tại gia đã vào Thiền viện là phải thực tập. Đã tới Tu viện rồi mà vẫn đi như bị ma đuổi thì tới làm gì? Mỗi bước chân dù vào nhà tắm, lên thiền đường, hay vào nhà bếp đều có thể đi như Bụt hết. Thành ra, mỗi bước chân mình ở trong chùa, trong Thiền viện phải là một bước chân hạnh phúc, một bước chân thảnh thơi, vô ưu. Nếu trong khi đi mà không có hạnh phúc thì làm sao trở thành giáo thọ được?
Phần lớn trong xã hội, chúng ta đều đi như bị ma đuổi. Chúng ta hấp tấp đi về tương lai để tìm hạnh phúc, tìm danh lợi, tìm cái gì đó và đánh mất sự sống. Sự sống ở trên trái đất này rất là ngắn nhưng mọi người chưa biết sống sâu sắc trong từng giây phút để có hạnh phúc.
Thảnh thơi tức là tự do. Có một cái gì đó trói buộc mình, nó làm cho mình không có thảnh thơi, tự do, đó là sự lo lắng. Mình có những dự án, mình muốn thành công nên bị nó hút hồn, khiến cho đứng ngồi không yên mà ăn ngủ cũng không yên, lúc nào cũng bất an như ngồi trên đống lửa. Chính cái đó nó trói buộc không cho mình thảnh thơi.
Tiếng chuông và phương pháp nghe chuông chánh niệm cũng là một phương pháp rất hay. Khi đang trôi lăn, chìm đắm, được nghe một tiếng chuông trở về với hơi thở, nếu hơi thở của mình vững chãi, có ý thức thì hơi thở đó là chánh pháp, nó bảo hộ thân tâm mình, không để cho tâm bị trôi lăn. Mới thực tập thì hơi khó khăn nhưng khi thực tập quen rồi thì không cần cố gắng nữa. Hễ nghe một tiếng chuông thì tự động tâm mình dừng lại và chấm dứt trôi lăn. Thực tập thành công được với tiếng chuông thì sau này với những âm thanh khác như tiếng chuông đồng hồ, tiếng chuông điện thoại mình cũng có thể thực tập được. Với bài thực tập này, mình không nhất thiết phải thực tập câu đầu rồi tới câu thứ hai. Nếu mình thích câu đầu thì mình thực tập câu đầu miết cũng đủ rồi “Con đi cho Bụt”, “Con đi cho Bụt” đây. Và khi mình đã vững rồi thì mình có thể thực tập câu thứ hai “Đi như đi chơi”. Và mình thấy rõ ràng là mình đang đi chơi thật. Lúc đó mình đang tiếp nối Bụt. Còn đi mà cứ suy nghĩ tới chuyện nọ chuyện kia là chưa được. Đừng có suy nghĩ miên man. Khi đi mình có hạnh phúc hay không tự mình biết, có hạnh phúc tức là mình tiếp nối được Bụt, điều này không cần ai phải nói cho mình hết. Ngay trong lúc ấy mình có thể vừa thiền chỉ vừa thiền quán.
Và đây là bài kệ thứ hai:
Con đi như Bụt

Con đang rong chơi
Con đang hạnh phúc
Con đang thảnh thơi.
Con phải giống cha. Ban đầu thì mình nói “Con đi cho Bụt”, đi đó là vì tình thương mà đi. Bây giờ mình đi giống hệt Bụt “Con đi như Bụt”. Câu thứ hai: “Con đang rong chơi”. Rong chơi không phải là chuyện dễ đâu, phải có tự do mới rong chơi được. Nếu mình vướng bận thì không thể rong chơi được, thành ra tới chùa là để học cách rong chơi. Rong chơi một ngày, rong chơi hai ngày. Rong chơi được thì không còn lo lắng, không còn sầu khổ, tật bệnh tiêu trừ, rong chơi thôi. Rong chơi là phương pháp trị bệnh rất là hay. Con đang rong chơi. Trong thời gian tại thế Bụt rong chơi khắp chốn và tại vì Ngài rong chơi được nên Ngài độ được rất nhiều người. Nếu Ngài không rong chơi thì làm sao Ngài độ được đời? Mình phải giải thoát. Mình phải thảnh thơi thì mình mới độ được người. Phải luôn tự hỏi ta có đang rong chơi hay không, hay ta đang bận bịu với những lo toan? Đang bận tâm theo đuổi một dự án?
Con đang hạnh phúc Con đang thảnh thơi.
Đây không phải là tự kỷ ám thị mà là sự thật. Mình đang có hạnh phúc thật và tự do thật. Khi thấy mình đang hạnh phúc đang thảnh thơi thì đúng là mình thành công. Phải biết buông bỏ buồn phiền thì mới hạnh phúc, thảnh thơi. Vấn đề là phải buông nó ra. Trong gia đình hay trong Tăng thân chúng ta phải giúp đỡ nhau làm chuyện này. Và thấy ai buông được khổ đau của họ thì mình phải mừng cho người ấy. Rong chơi thôi thì rửa nồi cũng rong chơi, quét nhà cũng rong chơi. Phải sắp đặt cho khéo để giờ phút nào, công tác gì cũng có thể rong chơi được. Làm cái gì cũng là tu hết. Nấu cơm, giặt áo, quét thiền đường, tưới rau, chùi cầu tiêu đều có thể làm trong tinh thần rong chơi. “Con đi như Bụt”, Bụt thấy không, con đang rong chơi đây nè, con đang hạnh phúc đây nè, đâu đến nỗi tệ lắm đâu. Con đang thảnh thơi đây nè, con buông được mà, con là học trò của Ngài mà. Giống như bài đầu, mình cứ chọn câu nào thích mà thực tập thôi, không hẳn là câu này đến câu kia.
Từ những thực tập ấy mà hạnh phúc của mình ngày càng lớn. Những bệnh tật trong thân hay trong tâm có thể được trị liệu bằng cách đi thiền hành. “Hiện pháp” tức là giây phút hiện tại, “lạc cư” là sống an lạc, sống an lạc ngay trong giây phút hiện tại chính là phương thuốc diệu kỳ nhất để trị cái bệnh bận rộn của nhân loại bây giờ. Ngày nay người ta không có khả năng “hiện pháp lạc cư”.
Giáo lý của Đức Thế Tôn vốn rất sáng sủa, dễ hiểu và có thể đem ra áp dụng được trong mọi lúc, mọi nơi. Chỉ nội bài này nếu mình nghe và đem ra áp dụng thì đã có thể thay đổi được tình trạng trong một vài ngày, mình có thể dừng lại được sự chìm đắm và trôi lăn. Và khi dừng lại được rồi thì mình có thể nhìn vấn đề rất sâu sắc vì vậy mà khám phá ra được nhiều điều. Nhìn sâu chừng nào thì thảnh thơi chừng đó. Tại vì cái tuệ giác mà mình đạt được khi nhìn sâu nó giải phóng cho mình khỏi những bức màn vô minh. Và khi có hạnh phúc rồi thì mình biết rằng mình có thể giúp đời được. Hạnh phúc đó được làm bằng thảnh thơi chứ không phải được làm bằng danh lợi hay là tiền bạc. Và chỉ cần thực tập từng đó thôi cũng đem lại hạnh phúc rất nhiều rồi. Trái banh Thầy liệng cho quý vị, bây giờ nó nằm ở dưới chân quý vị, chơi cho hay, chơi cho giỏi, hạnh phúc sẽ rất lớn.


TUỆ GIÁC, VÔ THƯỜNG VÀ VÔ NGÃ

Tuệ giác là lưỡi gươm cắt đứt mọi đau khổ, sợ hãi, tuyệt vọng, sân hận và kỳ thị. Năng lượng của định, của tuệ giác giúp ta thấy rõ bản chất đối tượng của định. Định Vô Thường và định Vô Ngã đưa đến tuệ giác Vô Thường và tuệ giác Vô Ngã.
Vô thường không phải là một ý tưởng hay một quan niệm mà là một tuệ giác. Tuy nhiên lắm lúc ta quên hẳn vô thường. Trên lý thuyết ta biết rằng tất cả đều là vô thường, nhưng ta quên đi rằng một ngày nào đó người ta thương sẽ bệnh, sẽ chết. Ta quên đi rằng chính ta rồi cũng sẽ chết. Ta có xu hướng suy nghĩ như là ta sẽ sống mãi. Và vì vậy ta không có tuệ giác vô thường để sống đẹp từng giây phút, để trân quý người thương. Nếu có tuệ giác vô thường thì phải biết rằng một ngày nào đó người ta thương sẽ chết và hôm nay ta phải làm tất cả những gì có thể để đem lại hạnh phúc cho người ấy. Đừng đợi đến ngày mai. Ngày mai có thể quá muộn. Nếu biết sống theo tuệ giác vô thường ta sẽ không phạm quá nhiều lầm lỗi. Ta có thể hạnh phúc ngay bây giờ. Ta có thể thương yêu, săn sóc người ta thương ngay ngày hôm nay. Ta không bươn chải về tương lai để rồi đánh mất sự sống. Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại.
Bụt dạy vô thường như là một tuệ giác. Bụt không bi quan mà chỉ muốn nhắc nhở chúng ta rằng sự sống rất đáng quý và chúng ta phải trân quý sự sống từng giây phút. Duy trì định vô thường như vậy sẽ đem đến tuệ giác vô thường. Nhờ tuệ giác vô thường mà ta không bị tuyệt vọng, sân hận, tiêu cực cuốn đi bởi vì tuệ giác vô thường cho ta biết phải nên làm gì và không nên làm gì để xoay chuyển tình thế. Nhờ vô thường mà không có gì không làm được.
Nếu không có tuệ giác, ta sẽ nghĩ rằng quyền lực là do ta tự tạo nên, chỉ cho riêng ta. Nhưng có một tuệ giác khác ta có thể đạt được, đó là tuệ giác vô ngã. Vô ngã không có nghĩa là ta không có mặt. Vô ngã chỉ có nghĩa là ta không có tự tính riêng biệt. Nguồn gốc của bao nhiêu đau khổ chính là do tâm phân biệt, phân biệt giữa mình và người, do ý niệm về một cái ngã riêng biệt. Giả thử bạn là cha mẹ. Hãy nhìn con của bạn và bạn sẽ thấy rằng con trai hay con gái bạn chỉ là sự tiếp nối của bạn. Cũng như cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp, con cái là sự tiếp nối của cha mẹ. Trong con có tế bào của cha. Cha và con không phải là một người nhưng cũng không phải là hai người. Khi người cha nhận ra điều này, ông đã chứng được tuệ giác vô ngã, cha đau khổ thì con cũng đau khổ và ngược lại. Cũng vậy, giận con mình tức là tự giận mình, giận cha mình tức là tự giận mình. Rất rõ ràng. Một khi đã thực chứng tuệ giác vô ngã, khi không còn phân biệt giữa bạn và con trai, con gái bạn, thì cơn giận của bạn sẽ tiêu tan. Bạn đang tranh dành quyền lực nhưng nếu biết quán chiếu vô ngã bạn sẽ biết cần phải làm gì và có thể chấm dứt đau khổ của chính bạn và của những người liên hệ đến sự tranh dành đó. Bạn biết rõ rằng sân hận của họ là sân hận của bạn, đau khổ của họ là đau khổ của bạn, hạnh phúc của họ là hạnh phúc của bạn.
Khi cánh tay trái của tôi bị phong thấp đau nhức, tôi săn sóc, xoa bóp, tôi làm đủ mọi cách để cho cánh tay trái bớt đau nhức mà hoàn toàn không giận dỗi gì cánh tay ấy. Khi tôi có một đệ tử chưa dễ thương, tôi cũng thực tập như thế. Tôi không giận đệ tử của tôi mà chỉ gắng săn sóc người đệ tử ấy như tôi đã săn sóc cánh tay trái vậy. Bởi vì tôi biết rằng giận đệ tử tức là tự giận mình và chẳng giúp ích được gì. Nhưng chúng ta chỉ có thể hành xử khôn ngoan như thế khi chúng ta đã thực chứng được tuệ giác vô ngã.
Trong Đạo Bụt có một tuệ giác gọi là tuệ giác Vô Phân Biệt (Xả). Xả là một trong bốn yếu tố của tình thương chân thực (Tứ Vô Lượng Tâm). Tôi thuận tay phải nên tôi làm hầu hết mọi việc bằng tay phải: đánh răng, thỉnh chuông, viết thư pháp. Tất cả những bài thơ của tôi đều được viết bằng bàn tay phải. Nhưng bàn tay phải của tôi không bao giờ tự hào và nói: “Này bàn tay trái, anh chẳng được tích sự gì. Một mình tôi làm tất cả mọi việc.” Và bàn tay trái của tôi không bao giờ có mặc cảm tự ti, không bao giờ đau khổ. Thật kỳ diệu. Hai bàn tay tôi luôn luôn sống hài hòa với nhau, hợp tác một cách toàn hảo. Đây chính là tuệ giác vô ngã sống động trong mỗi chúng ta.
Một hôm tôi đang đóng đinh để treo một bức tranh lên vách. Tay phải của tôi vụng về thế nào mà thay vì đóng vào đinh lại đi giáng cho ngón tay trái một nhát đau điếng. Ngay lúc ấy bàn tay phải của tôi lập tức buông ngay búa xuống và ôm chặt lấy bàn tay trái để chăm sóc. Bàn tay trái của tôi không hề giận giữ, trách móc, cũng không nói: “Này bàn tay phải, anh làm cho tôi đau. Tôi muốn công bằng. Đưa cái búa đây cho tôi.” Và bàn tay phải cũng không nói: “Này bàn tay trái, ta đang săn sóc cho ngươi, ngươi hãy nhớ lấy nhé.” Bàn tay trái và bàn tay phải của tôi không bao giờ suy nghĩ kiểu như vậy. Đó chính là tuệ giác vô phân biệt (Xả), một nguồn tuệ giác có sẵn trong ta, biết sử dụng tuệ giác ấy sẽ đem lại an hòa trong gia đình cũng như trong cộng đồng.
Tuệ giác có được là nhờ hiểu biết. Trong ta có thể đã có sẵn hiểu biết, nhưng vì ta không có niệm, không có định cho nên tuệ giác không có cơ hội phát hiện. Chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho niệm và định, cũng giống như muốn cho hoa mọc tươi tốt thì ta phải xới đất rải phân. Tuệ giác là một loại hiểu biết có được nhờ chánh niệm. Nếu ta tự đánh mất mình trong tiếc nuối quá khứ, trong lo lắng tương lai thì tuệ giác sẽ khó mà phát triển và như thế thì khó mà biết cách hành xử đúng trong hiện tại.
Chính vì vô minh mà ta đau khổ. Khi có tuệ giác ta có thể tiếp xúc sâu sắc với thực trạng của mọi sự, mọi vật và không còn sợ hãi, chỉ còn tình thương, chỉ còn chấp nhận tha thứ bao dung. Chính vì vậy mà ta gọi tuệ giác là một loại quyền lực, một sức mạnh siêu đẳng. Nếu bạn dành thì giờ để quán chiếu thực tại dưới ánh sáng của tuệ giác vô thường, vô ngã thì bạn sẽ giác ngộ và tự giải thoát khỏi đau khổ và khó khăn. Tất cả bốn quyền lực (tín, tấn, niệm, định) nói trên đưa đến quyền lực siêu đẳng (tuệ), đồng thời cũng đưa đến hạnh phúc vô biên.

Thiền Sư Nhất Hạnh

BỐN ĐẶC TÍNH CỦA NIẾT BÀN

Người tu học luôn luôn nghĩ đến mục đích của mình là giải thoát và an lạc. Người tu học có thể nói đến giải thoát, giác ngộ và an lạc rất nhiều mà không chứng nghiệm được giải thoát, giác ngộ và an lạc trong khi mình đang nói. Chúng ta nói cuộc đời là vô thường, vô ngã, khổ đau, chúng ta đi tìm chân tâm, an lạc, giải thoát và giác ngộ nhưng chúng ta có trực tiếp nếm được cái giải thoát và an lạc ấy hay không? Thực tập theo con đường Bụt dạy, ta không nên làm như những người chỉ nói về các thức ăn mà không bao giờ được ăn. Không nên như những người làm ở ngân hàng mỗi ngày chỉ đi đếm tiền dùm cho người khác. Chúng ta phải trực tiếp nếm được vị tịnh lạc và giải thoát mà ta đã từng nói tới.
Theo Bụt dạy thì vị tịnh lạc và giải thoát đó chúng ta có thể nếm được ngay trong hiện tại mà không cần phải tu mười năm hay hai mươi năm. Ngay trong ngày đầu tu học ta cũng có thể đạt được phần nào niềm tịnh lạc và giải thoát đó. Chúng ta phải đặt lại cấp bách câu hỏi ấy: "Cái an lạc và giải thoát mà ta nói đó, chúng ta đã nếm được hay chưa?" Nếu chưa thì ta phải nếm cho được trong ngày hôm nay. Thiền duyệt mà Bụt nếm và dùng làm thức ăn hàng ngày, chúng ta cũng phải được nếm. Hạnh phúc mà chúng ta nói tới làm sao chúng ta nếm được hoặc tiếp xúc được? Bản chất của hạnh phúc ấy là gì? Hôm nay chúng ta sẽ nói sơ lược về cái đó.
1.Yếu tố thứ nhất là tự do. Tự do đó là chủ quyền (sovereignty). Có khi ta dịch là tự tại. Ta là ta. Ta không là nô lệ của quá khứ, của tương lai, của hiện tại; ta không là nô lệ của những phiền não, và như vậy tự do đó được dịch là giải thoát (freedom, liberation). Ðó là bản chất của sự an lạc. Ðó là nền tảng tất yếu của sự an lạc.
Cố nhiên là muốn thực tập đạo Bụt trước nhất là phải thực tập tự do. Nếu không có tự do thì chúng ta không có hạnh phúc. Ðó là điều mà ta không chối cãi được. Ðó là nền tảng của thực tập trong đạo Bụt. Cái mà ta gọi là chủ quyền hoặc tự do đó có khi được hình dung bằng một danh từ rất là kỳ đặc: ngã. Ngã đây không phải là một bản chất hoặc một thực tại bất biến. Nó không phải là atma. Ngã đây là sự tự do. Một trong bốn định nghĩa của Niết Bàn là ngã. Niết Bàn có ngã. Ngã đây không là ngã chấp mà là sự tự tại, không bị vướng bận. Ta biết rằng bốn định nghĩa của Niết Bàn là thường, lạc, ngã và tịnh. Toàn bộ của giáo lý Bụt dạy là để nói về sự thực vô ngã và để diệt trừ những khái niệm về ngã. Nhưng khi định nghĩa Niết Bàn là ngã thì ta nên hiểu ngã này chỉ có nghĩa là tự do hoặc là chủ quyền thôi.
Khi đi thiền hành, quý vị bước từng bước chân thảnh thơi, an trú trong hiện tại và không bị vướng bận vào những phiền não về quá khứ, những lo lắng về tương lai thì quý vị có thảnh thơi và tự tại; quý vị tiếp xúc được với bản thân và với vũ trụ chung quanh. Cái thảnh thơi tự tại đó ta có thể gọi là ngã. Chữ ngã này không có nghĩa là một thực thể bất biến, đồng nhất, tách rời với những gì ngoài ngã như được diễn tả trong khái niệm ngã chấp. Chúng ta chỉ có hạnh phúc khi nào chúng ta có cái tự do đó. Vì vậy khi đi thiền hành hay ngồi thiền, chính ta biết là ta có tự tại hay không, hay là ta bị bao vây bởi phiền não, bởi những chuyện đã qua và những chuyện sắp tới. Nếu biết rằng ta đang bị bao vây bởi những bực bội thì ta cũng biết rằng ta đang không có hạnh phúc, vì ta không có tự do. Và tu học là để đạt tới tự do. Ðạt tới tự do là cắt đứt những sợi dây ràng buộc của mình để có thể tiếp xúc được với sự sống trong giờ phút hiện tại. Hạnh phúc là tự do, không hạnh phúc là ràng buộc.
Khi ta đặt câu hỏi: "Hạnh phúc của Bụt là gì? Chúng ta có quyền và có khả năng nếm được thứ hạnh phúc đó hay không?" Ta có thể trả lời rằng: "Có". Vì bản chất của hạnh phúc đó là sự tự do và nếu ta có tự do, có thảnh thơi thì tức là ta đã tham dự vào cái hạnh phúc của Bụt một cách trực tiếp. Ta có thể làm được chuyện đó ngay từ bây giờ. Kinh nói, trước khi rời thành phố Tỳ Sa Ly (Vaisali) lần chót để đi về phương Bắc, Bụt đã nhìn thành phố bằng cặp mắt của một con voi chúa, rồi mới ngoảnh mặt lại và tiến về hướng Bắc. Nhìn bằng cặp mắt của một con voi chúa là nhìn bằng cái nhìn thật là sâu sắc. Mình chỉ có thể nhìn sâu sắc sự vật trên đời này nếu mình có được cái tự do lớn, cái thảnh thơi lớn, không bị vướng mắc bởi những sợi dây ràng buộc. Bụt hay khen thành phố Vaisali và núi Thứu là đẹp: trong những giây phút đó Bụt cũng an trú trong hiện tại và đưa cặp mắt của một con tượng chúa để nhìn.
Sáng nay đi thiền hành với đại chúng về, tôi có nói chuyện về đôi mắt của con tượng chúa đó. Tôi nói mỗi người chúng ta trong khi đi thiền hành thỉnh thoảng cũng có thể dừng lại và đưa con mắt tượng vương của mình để nhìn cảnh vật của xóm Thượng. Nếu ta nhìn bằng con mắt tự do thì cái nhìn của ta sẽ bao gồm được cả vũ trụ trong giây phút đó. Khi ta dừng lại và dừng lại với tất cả con người của ta thì ta sẽ có cái năng lượng của giải thoát, và khi ta đưa cặp mắt voi chúa của ta mà nhìn cảnh vật xóm Thượng thì những vùng năng lượng của giải thoát sẽ được dâng lên mắt. Nhờ thế mà cái nhìn của ta trở nên sâu sắc và chọc thủng được bức màn thất niệm và hôn mê. Khi cọp đưa mắt của cọp chúa mà nhìn cảnh rừng núi của nó, tất cả muôn loài đều nín im thin thít. Và nó biết nó là chúa tể của rừng núi. Khi một người có định lực lớn đưa cặp mắt nhìn cảnh vật của xóm Thượng thì tự nhiên những lo lắng và những phiền não sẽ lắng im phăng phắc. Nếu chúng ta nhìn cảnh vật xóm Thượng như vậy một lần trong đời thôi, thì sống trên đời cũng đã không uổng. Huống gì chúng ta có thể nhìn nhiều lần trong ngày? Thực tập là làm nhiều lần. Mỗi giây phút là một viên ngọc quý. Nếu Bụt nhìn sự vật với cặp mắt tượng vương, thì khi bước đi Bụt cũng bước những bước chân của con sư tử chúa. Từng bước thảnh thơi dẫm lên mặt đất của thực tại, và như vậy bước đi của Người là bước đi của giải thoát an lạc. Ta biết hạnh phúc của Người là hạnh phúc căn cứ trên tự do. Vì vậy nếu bị quá khứ phong tỏa và tương lai lôi kéo thì chúng ta không có tự do, không có hạnh phúc.
Thực tập đạo Bụt là thực tập hạnh phúc. Ta nên biết chánh niệm (mindfulness) là vũ khí giúp chúng ta đoạt lại quyền tự do mà chúng ta đã đánh mất và đang đánh mất. Người tu mà không biết sử dụng chánh niệm thì không có vũ khí nào khác cả để giành lại chủ quyền của mình. Chủ quyền đó đạo Bụt đại thừa gọi là ngã. Ðạo Bụt đại thừa không sợ danh từ, trong đó có danh từ "Ngã". Chánh niệm là một thứ vũ khí giúp ta giành lại chủ quyền, nhưng ta còn một vũ khí khác cũng quan trọng lắm, đó là giới luật. Suốt mùa hè chúng ta đã học và thấy rất rõ là giới luật không phải những gì do người khác bắt buộc ta phải theo mà là hoa trái của chánh niệm. Căn bản của tất cả các giới luật là chánh niệm. Chánh niệm là mẹ của tất cả các giới luật.
Nhờ chánh niệm tôi biết rằng sát sanh tạo ra đau khổ. Nhờ chánh niệm tôi biết rằng uống rượu và sử dụng các chất ma túy tạo ra khổ đau. Có chánh niệm nên tôi biết rằng tà dâm làm tan nát gia đình và tạo ra không biết bao nhiêu là đau khổ. Vì vậy tôi nguyện không uống rượu, không sát hại và không tà dâm. Giới luật, như vậy, là hoa trái của chánh niệm. Giới luật vì thế không phải là một cái gì hạn chế tự do của mình. Những người chưa học Bụt và nhất là chưa thực tập, mỗi khi nghe nói tới giới thì cứ tưởng rằng giới luật hạn chế tự do của mình. Sự thực, giới luật bảo vệ tự do của mình, giúp mình có thêm tự do. Phá giới thì ta lâm vào cái vòng tù tội (không phải là cái vòng tù tội của chính quyền đặt ra mà là cái nhà tù của khổ đau). Ví dụ khi uống rượu và sử dụng các chất ma túy ta tự giam ta vào cái vòng nghiện ngập. “Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong”. Mình tự tạo khổ đau cho mình và tạo khổ đau cho những người khác; mình tạo ra những cái nhà tù cho mình và cho những người khác. Ta thử nghĩ cho kỹ lại xem. Ta mà nghiện ngập thì cả gia đình ta ở tù hết. Ta "tà dâm" thì cả gia đình ta cũng "ở tù" hết. Cái nhà tù đó là nhà tù của đau khổ.
Trong một đại chúng tu học cũng vậy, nếu có một người phạm giới thì tất cả đại chúng đều lãnh đủ hết. Cho nên tự do của một người, giới luật của một người có liên hệ tới hạnh phúc và tự do của những người khác trong đại chúng. Trong kinh Sa Môn Quả, Bụt có nói là khi một vị khất sĩ giữ giới thì vị ấy được tự do, vị ấy không còn sợ hãi. Ngủ dưới gốc cây ta cũng cảm thấy rất an lành. Các vị khất sĩ giữ đến hai trăm năm mươi giới thì tự do càng lớn. Khi có tự do ta cũng có hạnh phúc. Mà hạnh phúc là an lạc (peace and joy). Nếu mình nói tuy mình đã có tự do rồi mà mình vẫn chưa có an lạc thì mình hãy thử tự hỏi là cái tự do đó có phải là tự do thực sự chưa? Bởi vì nếu đó là tự do thật sự thì dù không muốn mình vẫn có an lạc. Sự thật là như thế. Nhiều khi không có tự do mà mình cứ tưởng là mình có tự do, cũng như rất nhiều người có vấn đề về đường ruột mà vẫn nghĩ là mình không hề có vấn đề về đường ruột. Có người có rất nhiều nội kết mà cứ tưởng là không có nội kết.
Khi tôi nhìn cảnh mặt trời lặn rực rỡ huy hoàng thì tôi có hạnh phúc. Có kẻ nói rằng vì cảnh mặt trời kia là vô thường, nên cái đẹp ấy chỉ là cái hạnh phúc của thế gian chứ không phải là cái hạnh phúc của người giải thoát. Cái đó không đúng. Hạnh phúc của người giải thoát là hạnh phúc mang theo tự do và biểu lộ được tự do. Còn hạnh phúc của người không giải thoát là hạnh phúc mang theo sự ràng buộc. Bụt có thể nhìn bông hoa và khen bông hoa đó là đẹp mà vẫn không bị vướng mắc, không bị ràng buộc bởi cái đẹp ấy. Còn người không có giải thoát nhìn vào một bông hoa có thể bị dính vào bông hoa. Khi nhìn bông hoa, Bụt thấy được tính chất vô thường của bông hoa và ý thức về vô thường đó chứng tỏ rằng Bụt có giải thoát.
Vì vậy khi Bụt nói với thầy A Nan: "Này thầy A Nan, thành phố Vaisali đẹp quá há!" Bụt quả thấy thành phố đẹp. Bụt biết thưởng thức thành phố mà không bị vướng mắc vào thành phố. Chúng ta là những người tu theo Bụt, chúng ta có thể thấy được cuộc sống mầu nhiệm trong giây phút hiện tại, chúng ta thấy được cái đẹp và cái hay của vũ trụ vạn hữu trong giây phút hiện tại, chúng ta có thể hưởng thụ cái hạnh phúc đó với điều kiện là chúng ta thấu được lẽ vô thường, biết rõ là những hiện tượng đó đều là những sự kiện vô thường sẽ tan biến.
Nói một cách khác hơn là trong khi thưởng thức những cái đó chúng ta vẫn còn là những con người tự do. Thành ra an lạc ở đây phải được làm bằng chất liệu của tự do. Nếu không có chất liệu tự do thì không thể gọi đó là an lạc chân thực. Người kia đang hưởng thụ năm món dục lạc (tài, sắc, danh, thực và thụy: moneỵ, sex, fame, uncontrolled eating, and oversleeping), tham đắm và ràng buộc vào năm món dục lạc như một con thiêu thân nhảy vào trong lửa. Người như vậy không có tự do. Khi chúng ta đi thiền hành hay uống một ly nước mát, ta có quyền có sự an lạc. Chúng ta đừng tưởng rằng có an lạc như vậy là có tội vì đó là hạnh phúc thế gian. Không, hạnh phúc đó cũng là hạnh phúc giải thoát, Bụt cũng hưởng cái hạnh phúc đó mà Người không vướng víu.
Ta không thể hiểu bản chất của an lạc trong đạo Bụt nếu ta không biết rằng tự do là bản chất của an lạc. Bụt dạy các vị khất sĩ khi ăn nên quán chiếu về thức ăn. Các thầy có thể thấy ngon trong khi ăn nhưng các thầy cũng biết rằng thức ăn cũng bất tịnh và khi nuốt vào trong bụng rồi thì thức ăn sẽ rất khác. Ðó là cách quán chiếu về tính cách bất tịnh của thức ăn mà các thầy ngày xưa thường thực tập. Cố nhiên khi tắm gội thân thể sạch sẽ ta cũng biết rằng phải hiểu nghĩa sạch sẽ ấy theo tinh thần vô thường, nghĩa là mình biết trong con người mình đồng thời có những cái không sạch. Vì vậy Bụt dạy quán bất tịnh. Chẳng phải khi mình mẩy mồ hôi dơ dáy mình mới quán bất tịnh được mà khi mới tắm sạch mình cũng quán thấy thân thể mình có tính bất tịnh như thường.
2. Yếu tố thứ hai là an lạc. An có nghĩa là tâm tư không bị khuấy động. Cái cảnh mặt trời huy hoàng kia, niềm vui trước mắt kia không khuấy động được tâm tư mình. Mình đang thưởng thức nó nhưng tâm mình vẫn bình thản. Mình thưởng thức nó nhưng những huy hoàng kia không tạo sóng gió và không tạo ra những phiền não ràng buộc trong tâm mình. Cái đó gọi là an.
An cũng có nghĩa là không sợ hãi. Biết rằng vạn vật vô thường, chính ngũ uẩn của ta cũng vô thường nên ta không sợ hãi cái sanh và cái diệt. Ðó mới là thứ an tịnh vững chải nhất. Ta biết rằng hạnh phúc trong môi trường tu học được làm bằng bản chất của sự an tịnh. Nếu con người không có bản chất của sự an tịnh này thì không có hạnh phúc. Còn cái "an lạc" của người đang say mê trong ngũ dục không gọi là an lạc được. Ðó gọi là đam mê, là sự đánh mất mình.
Lạc là khả năng vui sống. Bụt bằng sự sống hằng ngày của Người chứng tỏ là Người có sự vui sống. Tôi rất lấy làm lạ là trong mấy chục năm tu học ở tu viện, được học rất nhiều giáo lý sâu sắc của đạo Bụt nhưng chưa bao giờ tôi được quý thầy dạy cho những câu mà Bụt nói với thầy A Nan như: "Này thầy A Nan, núi Thứu đẹp quá! A Nan, Thầy hãy nhìn xuống cánh đồng lúa kia, đẹp không? Tại sao thầy không tìm cách may áo của các vị khất sĩ theo mẫu mực của các cánh đồng lúa này? Thầy A Nan, thành Vaisali đẹp quá phải không?..."
Bụt đã chứng tỏ là Người có rất nhiều hạnh phúc. Người an trú trong hiện tại. Người có tự do. Người đã sống đời sống thanh thản, an lạc. Người tu mà không có an và lạc thì tu chưa giỏi. Hạnh phúc đó và sự an lạc đó thuộc về cái an lạc xuất thế gian (lokottara), trong khi những người tham đắm trong ngũ dục thì quanh quẩn trong cái gọi là hạnh phúc thế gian. Cũng là sắc, thanh, hương, vị, xúc nhưng cách thức đón nhận khác nhau. Ðón nhận bằng ràng buộc, nặng nề và tham đắm thì ta sống trong cảnh thế gian. Ðón nhận bằng trí tuệ giác ngộ, biết chúng là vô thường và vô ngã thì ta vẫn duy trì được an tịnh và tự do của ta và vẫn an trú trong thế giới của tịnh lạc xuất thế gian. Ðây là tịnh độ, tịnh độ là đây là như vậy. Niết Bàn nằm chính trong giây phút hiện tại.
Ðã biết rằng an và lạc làm bằng bản chất tự do thì ta rõ an lạc ấy không mong manh như sự đắm chìm theo ngũ dục. Vì không có tính cách gây khuấy động và gây tà kiến vô minh nên an lạc này có tính cách tịnh và thường. Có tính cách tịnh, vì an lạc ấy không làm đục ngầu cái tâm của mình và cái tâm của những người khác, không tạo ra khổ đau trong năm uẩn mình và trong năm uẩn của những người khác. Khi thưởng thức một tách trà, ta thưởng thức với chánh niệm, với tự do. Tuy chúng ta biết trà ấy ngon nhưng chúng ta nghĩ là nếu không có trà chúng ta cũng uống được nước lạnh, và nước lạnh cũng có cái ngon của nó. Vì vậy sự thưởng thức hạnh phúc của chúng ta có tính cách tịnh. Nó không khuấy động tâm ta.
Trong khi thưởng thức hạnh phúc ấy, biết rằng hạnh phúc ấy không phải là nguyên do của những đau khổ trong hiện tại và trong tương lai thì ta gọi hạnh phúc ấy là tịnh, bởi vì nó không có tác dụng làm cho thế giới và tâm hồn ta bất tịnh. Còn như khi ta uống rượu và tham đắm, chúng ta không có chánh niệm. Nếu có chánh niệm, ta đã biết rằng rượu làm hại gan. Rượu lại có tác dụng gây đau khổ cho mọi người, cho mình, cho xã hội và cho các loài khác. Ta biết rằng rượu được làm bằng chất ngũ cốc. Hằng triệu người đang chết vì thiếu ăn: uống rượu tức là sát sanh và đồng thời làm hư gan của mình. Nếu nghiện ngập mình sẽ làm đau khổ cho nhiều người: lái xe có thể làm chết người, say sưa sẽ làm nhiều điều xằng bậy. Vì vậy uống rượu mà không có chánh niệm là bất tịnh. Mà nếu uống rượu trong chánh niệm thì không thể nào có an lạc hạnh phúc được và nếu tiếp tục uống trong chánh niệm ta sẽ bỏ rượu không chóng thì chầy.
Hạnh phúc của người tu mang tính cách tịnh ấy. Tuy rằng thân thể ta miêu tả là bất tịnh, các thức ta ăn là bất tịnh, nhưng nếu ta có tự do, nếu ta có chứng nghiệm về vô thường và vô ngã thì tất cả các việc mà ta làm mới xem qua tuy giống hệt như việc người khác làm nhưng bản chất của chúng là tịnh, bởi vì chúng không gây khổ đau cho ta và cho người, bây giờ và trong tương lai.
Về bất tịnh quán, thầy tôi đã dạy: "không phải là thấy được sự dơ bẩn về vật chất của sự vật mới gọi là bất tịnh quán". Bất tịnh quán là có thể nhìn với con mắt quán chiếu về nhân quả. Một hành động nào có thể gây đau khổ trong tương lai, mình quán chiếu thấy được kết quả đau khổ ấy thì đó có thể gọi là bất tịnh quán rồi. Ðang đi ăn cắp mà chợt thấy rằng ăn cắp thì có thể bị ở tù, như vậy đã là bất tịnh quán. Quán như thế cho rõ ràng ta sẽ ngưng ý định ăn cắp. Nhờ tự do, chánh niệm và giới luật người tu có an lạc và có thanh tịnh. Niết Bàn của chúng ta là cái mà ta có thể tiếp xúc được ngay trong ngày hôm nay tới một mức độ nào đó.
Trong khi đi thiền hành, trong khi uống trà, ta thấy được và ta nếm được nó. Cái vui của ngũ dục rất mong manh, có khi chỉ kéo dài một phút, vài phút nhưng vì mê đắm quá có người đã nói "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt...!" Nhưng hạnh phúc của người giải thoát thì có thể kéo dài bao lâu cũng được. Khi mình ngắm nhìn một cội cây lá vàng rực rỡ trong mùa thu và mình thực tập hơi thở chánh niệm: "Tôi đang thở vào và tiếp xúc với lá vàng rực rỡ, tôi đang thở ra và cảm thấy hạnh phúc." Thực tập như thế trong năm phút ta có hạnh phúc trong năm phút. Nếu thở và ngắm trong mười lăm phút thì hạnh phúc ta kéo dài mười lăm phút.
Dĩ nhiên cội cây ấy không vàng rực suốt đời cho mình ngắm đâu. Lá vàng rồi lá đỏ, và cây từ từ trụi lá. Khi mình không tham đắm màu vàng mình mới biết tận hưởng màu đỏ và cảm thấy hạnh phúc. Rồi khi cây trụi lá mình cũng không tham đắm tiếc thương lá. Biết lá thế nào cũng sẽ trở lại, mình mới thấy được cái đẹp của cội cây với những cành khẳng khiu trụi lá, hùng vĩ can trường trong sương tuyết và mình lại có hạnh phúc. Rồi khi xuân về, mình lại được thấy cái đẹp khi những chồi hoa lá xuất hiện từ từ trên các cành khẳng khiu kia một cách thật mầu nhiệm.
Cái hạnh phúc không tham đắm đó gọi là thường. Khi mà có tuệ giác về vô thường rồi thì cây vàng mùa thu cũng đẹp mà cây trụi lá mùa đông cũng đẹp. Hạnh phúc đó là hạnh phúc trường cửu, hạnh phúc làm bằng chánh niệm và bằng tự do. Những danh từ thường, lạc, ngã và tịnh ấy có người sợ lắm. Họ xem những danh từ đó là kỵ, là không chính thống, là ngoại đạo. Ta phải hiểu bốn tiếng đó không phải theo nghĩa trái chống với bốn tiếng vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh. Thường (permanence), lạc (joy), ngã (sovereignty), tịnh (non disturbance) ở đây là bốn đức của Niết Bàn, Niết Bàn có thể thực chứng được tại đây và bây giờ.
Bụt chỉ cho mọi người thấy tính cách vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của mọi sự vật. Chúng ta quán chiếu để thấy được tính cách vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của vạn vật vì vậy ta có khuynh hướng từ bỏ thế giới năm uẩn để đi tìm cái mà Bụt dạy, đó là Niết Bàn, trong đó có thường, lạc, ngã và tịnh. Rất nhiều người đã đi lạc vào trong cái quan niệm cho rằng niết bàn là một cái gì tách rời ra khỏi cuộc đời vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh này. Ðạo Bụt đại thừa tới giúp ta nhìn sâu hơn, rõ hơn về những điều Bụt dạy và nói rằng cái mà ta đang đi tìm đó, cái hạnh phúc và Niết Bàn đó, chúng ta hãy tìm ngay trong thế giới của vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh.
Vì vậy cho nên nếu khéo léo quý vị sẽ thực tập được tự do, chánh niệm, giới luật, chỉ và quán sẽ chứng nhập được Niết Bàn, cảnh giới của thường, lạc, ngã, tịnh tại đây, ngay trong cuộc đời này. Bốn từ này phải được hiểu theo nghĩa của tự do, của giải thoát. Hạnh phúc mà chúng ta đi tìm có tính cách trường cửu, trường cửu vì được căn cứ trên tuệ giác về vô thường, căn cứ trên phong độ và nhận thức tự do của chúng ta. Hạnh phúc ấy đem lại một niềm vui vững bền, nuôi nấng chúng ta bằng nhiều chất liệu lợi lạc. Thực tập là để cởi bỏ những sợi dây ràng buộc, để có tự do. Tự do ấy mà không có thì ta không có gì hết. Khi sống cuộc đời của mình trong tu viện mà được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bốn chất thường, lạc, ngã và tịnh ấy thì ta mới nên nói về Phật pháp và mới nên đem Phật pháp chia sẻ với người khác. Bạn muốn giảng cho tôi nghe về thường, lạc, ngã và tịnh thì bạn phải nếm nó trước. Bạn hãy cười, hãy chứng tỏ là bạn có hạnh phúc. Nếu không, tôi sẽ không theo học với bạn.

SỨC MẠNH CỦA TINH TẤN

Khi thực tập có niềm vui thì ta bắt đầu có hứng thú để tu tập. Tuy nhiên, bạn phải duy trì sự thực tập đó một cách bền bỉ, không nên xao lãng. Phải thực tập đều đặn, thực tập mỗi ngày với sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè và tăng thân. Đó gọi là tấn. Nếu bạn thực tập ngồi thiền, thiền hành, thực tập hơi thở chánh niệm, ăn cơm chánh niệm mỗi ngày thì sự thực tập sẽ được nuôi dưỡng đều đặn, liên tục và đó chính là sức mạnh thứ hai. Ta có khả năng chánh niệm nhưng không cần phải chứng tỏ rằng ta đang thực tập chánh niệm. Điểm quan trọng là không nên phô trương sự thực tập mà thực tập chỉ vì sự bổ ích và thích thú cho chính mình. Ta thực tập và thực tập mỗi ngày. Có thế thôi.
Có bốn khía cạnh của tinh tấn.
Thứ nhất: khi một cảm xúc tiêu cực chưa phát khởi thì đừng tạo cơ hội cho cảm xúc ấy phát khởi. Theo tâm lý học Phật giáo thì tâm thức của chúng ta gồm có hai tầng: tầng dưới gọi là Tàng thức, tầng trên gọi là Ý thức. Ý thức là phần sinh hoạt bình thường khi ta còn thức. Tàng thức là phần tiềm thức.
Tàng thức của chúng ta được ví như mảnh đất trong đó chứa tất cả các loại hạt giống: hạt giống của tình thương, của niềm vui, hạnh phúc, tha thứ bao dung, của niệm, định, tuệ,… nhưng cũng có những hạt giống của giận hờn, hận thù, tuyệt vọng... Tàng thức chứa những hạt giống ấy và đồng thời cũng cất giữ chúng không để cho mất đi.
Khi những hạt giống ấy được tưới tẩm chúng sẽ biểu hiện thành một loại năng lượng trên tầng ý thức và trở thành những tâm hành. Trong ta có hạt giống giận nhưng khi hạt giống giận còn nằm dưới tàng thức thì ta không cảm thấy giận. Tuy nhiên khi bị chọc giận, tức là hạt giống giận bị tưới tẩm thì chúng sẽ hiển lộ, và biến thành tâm hành giận. Năng lượng của cơn giận sẽ trào dâng và ta cảm thấy giận. Chúng ta có thể hình dung ý thức là phòng khách và tàng thức là nhà kho. Nếu những hạt giống vui tươi được tưới tẩm chúng sẽ hiện lên trên tầng ý thức, làm đẹp cho phòng khách. Nếu ta tưới tẩm những hạt giống giận giữ, thù hận thì phòng khách của chúng ta sẽ biến thành địa ngục cho chính ta và những người ta thương.
Tất cả chúng ta đều có hạt giống của giận hờn, tuyệt vọng, ganh tỵ. Một môi trường thiếu lành mạnh có thể khơi dậy những hạt giống ấy. Trái lại trong một môi trường tốt chúng sẽ không bị tưới tẩm một cách dễ dàng. Vậy thì chúng ta phải khôn ngoan chọn lấy một môi trường sống lành mạnh. Không nên tự mình tưới tẩm hay để cho những người chung quanh tưới tẩm những hạt giống tiêu cực trong ta.
Một bài báo, một cuốn phim hay một chương trình truyền hình đầy bạo động sẽ đánh thức những hạt giống bạo động trong ta. Cho nên bước đầu tiên của tinh tấn là không nên tự mình hay để cho môi trường xung quanh khơi dậy những hạt giống tiêu cực ấy. Tinh tấn ở đây có nghĩa là thực tập tưới tẩm có chọn lọc. Vậy thì trong cuộc sống hằng ngày nếu những hạt giống tiêu cực trong tàng thức còn chưa phát hiện thì phải cẩn thận đừng để cho các hạt giống ấy có cơ hội phát hiện. Không cần phải đè ép, chỉ cần tránh tạo cơ hội. Trong gia đình hay trong cộng đồng ta chỉ nên tiếp xúc với những âm thanh hay hình ảnh giúp khơi dậy những gì tốt lành. Tránh gần gũi những âm thanh hoặc hình ảnh kích thích những hạt giống của tham dục, và giận hờn. Ta phải tinh tấn thực tập như thế, và cần xây dựng một nhóm bạn bè cùng có mong muốn tu tập để tạo nên một môi trường tốt, hay nhờ những người trong gia đình giúp ta tự bảo vệ. Và ta cũng có thể bảo vệ những người thân bằng cách tạo nên một môi trường trong đó không có những yếu tố có thể tưới tẩm những hạt giống tiêu cực.
Khía cạnh thứ hai của tinh tấn là làm lắng dịu các hạt giống tiêu cực hoặc thay thế chúng khi chúng đã biểu hiện. Khi một hạt giống tiêu cực – hạt giống của tuyệt vọng, sân hận hay bạo động – bị khơi dậy ta cần biết cách ngăn chặn và đưa chúng trở về tàng thức. Đừng để chúng phát hiện quá lâu trên vùng ý thức, bởi vì để càng lâu chúng càng mạnh và sẽ gây đổ vỡ. Có nhiều cách lắng dịu hạt giống tiêu cực mà không cần phải đè nén hay tranh đấu. Hãy nhận diện chúng và mỉm cười với chúng. Bạn đừng để cho buồn tủi, sầu hận chế ngự, hãy thay thế chúng bằng cách đi dạo ngắm thiên nhiên, hay đi thiền hành hoặc tìm đọc một đoạn văn sâu sắc, nghe một bản nhạc êm dịu. Cũng giống khi mở nhầm một đĩa nhạc không hay thì ta đừng có cố nghe mà nên thay thế bằng một CD khác hay hơn. Thời của Bụt không có CD cho nên Ngài dùng hình ảnh thay chốt. Ngày xưa khi bàn ghế bị lỏng lẻo do cái chốt bị mục nát thì người thợ mộc thay vào một chốt mới. Cũng thế, ta có thể “thay chốt” một tâm hành đang làm ta khó chịu. Khi một ý nghĩ tiêu cực đầy tham dục hay sân hận phát hiện ta có thể dùng hơi thở có ý thức để mời lên một hạt giống lành mạnh. Nếu hạt giống lành mạnh đủ sức hấp dẫn thì hạt giống tiêu cực sẽ bị yếu đi. Nhưng phải nhớ rằng hạt giống lành mạnh phải đủ sức hấp dẫn nếu không thì hạt giống tiêu cực sẽ chẳng chịu lùi bước và càng lấn lướt. Với tất cả khôn khéo, tinh chuyên hãy thực tập như thế để chuyển đổi tình trạng, để đưa hạt giống tiêu cực xuống yên ngủ và mời hạt giống tích cực biểu hiện. Khi tâm hành tích cực biểu hiện thì phòng khách ý thức không còn chỗ cho những tâm hành tiêu cực xâm nhập.
Khía cạnh thứ ba của tinh tấn là luôn luôn mời các hạt giống tích cực lên vùng ý thức. Trong ta luôn có những hạt giống của giác ngộ, hiểu biết và thương yêu. Đó là một phần của bản tính bẩm sinh. Sống trong một môi trường lành mạnh, được bao bọc bởi thương yêu, ta sẽ có rất nhiều cơ hội giúp cho các hạt giống tích cực ấy phát hiện. Vấn đề là làm sao giúp cho các hạt giống ấy phát hiện khi chúng đang còn ở dưới tàng thức? Hãy đọc một đoạn sách, nghe một bản nhạc, hay nói một lời từ ái để tưới tẩm các hạt giống của từ bi, thương yêu. Hãy tổ chức đời sống sao cho những hạt giống tốt được chạm đến nhiều lần trong ngày để cho chúng có cơ hội phát hiện lên vùng ý thức. Điều này có thể được thực hiện rất nhanh. Luôn mời khách quý vào phòng khách và tình thế sẽ được thay đổi.
Khía cạnh thứ tư của tinh tấn là lưu giữ những tâm hành thiện ở trên phòng khách càng lâu càng tốt. Ta phải lưu tâm và nuôi dưỡng chúng. Thật tuyệt vời khi những tâm hành thương yêu, an vui đang ở trên vùng ý thức. Cho nên phải giữ lấy, mời chúng ở lại đó và đừng để cho chúng trở xuống vùng tàng thức. Có được một người bạn quí tới thăm và cùng chuyện trò trong phòng khách là một hạnh phúc lớn. Bạn phải cố thuyết phục người ấy ở lại càng lâu càng tốt, “Ngoài trời đang mưa, mời anh ngồi lại uống trà”. Những tâm hành ở trên vùng ý thức càng lâu thì hạt giống của chúng ở dưới vùng tàng thức càng lớn mạnh. Điều này đúng cho cả các tâm hành thiện (tích cực) hay bất thiện (tiêu cực). Ôm ấp tâm hành tham dục năm phút thì hạt giống tham dục có được năm phút để lớn mạnh. Vậy thì hãy đưa hạt giống của tham dục xuống tàng thức càng nhanh càng tốt và mời một hạt giống tốt, tích cực lên thay thế.
Sử dụng những phương tiện quyền xảo và các phép thực tập nói trên để chế tác chánh niệm, đó gọi là chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn đem lại rất nhiều niềm vui, hạnh phúc cho ta và những người thương của ta. Những người có năng lượng tinh tấn là những người có rất nhiều sức mạnh, nhiều quyền lực. Họ có thể tự chuyển hóa, chuyển hóa môi trường mà họ đang sống và chuyển hóa cả thế giới

TS. Nhất Hạnh